Bài viết sẽ phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội danh thường gây nhẫm lẫn trong quá trình xác định tội danh.
1. Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại điều 174, 175 Bộ luật hình sự 2015. Hai tội danh này có sự khác biệt rõ nét để phân biệt và xác định tội danh là:
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản sử dụng hành vi gian dối (đưa thông tin sai lệch nhưng khiến người khác tin là sự thật) để chiếm đoạt tài sản của người có tài sản. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt của cải thì người phạm tội có được tài sản thông qua các giao dịch tài sản hợp pháp (vay, thuê, mượn hoặc các giao dịch khác) từ phía người có được tài sản; sau khi nắm giữ tài sản, người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối để không phải trả lại tài sản hoặc giá trị tài sản cho người có tài sản.
Như vậy, đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tài sản mà người phạm tối có được sẽ thông qua các hình thức bất hợp pháp và cụ thể là gian dối để chiếm đoạt từ người có tài sản. Còn với tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tài sản người phạm tội có được do chủ sở hữu tài sản, người quản lý tài sản giao cho người phạm tội trên cơ sở các giao dịch hợp pháp. Sau khi có được tài sản người phạm tội mới sử dụng các hành vi gian dối để trốn tránh nghĩa vụ hoán trả nhằm chiếm đoạt tài sản.
2. Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với hành vi tham ô tài sản
Tội tham ô tài sản là tội đầu tiên được quy định trong nhóm tội phạm tham nhũng tại điều 353 Bộ luật hình sự 2015. Tội tham ô tài sản là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn, lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý. Ở hai tội này có điểm giống nhau là: đều là tội cấu thành vật chất; đều là lỗi cố ý trực tiếp với mục đích tư lợi. Tội tham ô tài sản và tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản khác nhau ở các dấu hiệu sau đây:
Chủ thể
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có chủ thể là chủ thể thường ( được hiểu là có đủ các điều kiện của chủ thể là đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi). Tội tham ô tài sản có chủ thể đặc biệt. Cụ thể, chủ thể này vừa phải có đủ các dấu hiệu của chủ thể tội phạm thông thường, còn phải có thêm dấu hiệu: là người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý tài sản bị chiếm đoạt. Những chủ thể thông thường (không có chức vụ, quyền hạn) chỉ có thể là đồng phạm của tội tham ô tài sản: là người xúi giục, người tổ chức, người giúp sức.
Khách thể
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đối tượng là tài sản mà người phạm tội nhận được một cách hợp pháp thông qua giao dịch chuyển giao tài sản với chủ sở hữu, người quản lý tài sản. Tội tham ô sài sản có đối tượng tác động là tài sản mà người phạm tội có trách nhiệm quản lý. Nói cách khác, tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xậm phạm khách thể là quan hệ sở hữu còn tội tham ô tài sản xâm phạm khách thể là hoạt động của Nhà nước. Hai khách thể này khác nhau vì một bên có sự tham gia của chủ thể có quyền lực đặc biệt là Nhà nước.
Mặt khách quan
Ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản biểu hiện của hành vi là dùng thủ đoạn gian dối; bỏ trốn; đến hạn có khả năng, điều kiện trả nhưng cố tình không trả để chiếm đoạt tài sản. Tội tham ô tài sản là hành vi của người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt, đánh tráo tài sản do người này quản lí thành tài sản cá nhân, hậu quả là mất đi một lượng tài sản nhất định của cơ quan nhà nước.