A lái taxi chở bà C (quốc tịch Nhật Bản) từ sân bay về khách sạn trong thành phố. Đến nơi, đồng hồ tính tiền cước báo 250.000 đồng nhưng khi khách đưa tờ 500.000 đồng H vẫn ra hiệu chưa đủ. Sau nhiều lần ra hiệu phải đưa thêm tiền, A đã nhận của bà C tổng cộng 1,5 triệu đồng. Liệu A có bị xử lý hình sự không? Nếu có, A phạm tội gì?
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi về lawfirms.vn. Về vấn đề của bạn, chúng tôi xin trả lời như sau:
Hành vi vòi thêm tiền của A có bị xử lý hình sự theo điều 174 Bộ luật hình sự 2015 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cấu thành cơ bản của tội phạm này như sau:
Về mặt khách thể: Khách thể ở đây được xác định là quan hệ sở hữu số tiền 1,5 triệu đồng của bà C nước ngoài. Đây là quan hệ được luật hình sự bảo vệ và bị hành vi của A xâm phạm.
Về mặt khách quan:
Về hành vi: Có hành vi đòi thêm tiền của khách – hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 quy định hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là “ bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác”.
Do đặc điểm riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. Thủ đoạn gian dối cũng được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, không có thủ đoạn thuộc về tư tưởng, suy nghĩ của người phạm tội lại không được biểu hiện ra bên ngoài bằng hành vi. Cụ thể, thủ đoạn mà người phạm tội dùng thường là cung cấp thông tin sai lệch dẫn đến nạn nhân tự nguyên đem tài sản cho người phạm tội.
Về tính chất, hành vi chiếm đoạt tài sản diễn ra thường trong một lần, để phân biệt với tội lừa dối khách hàng có tính chất chiếm đoạt tài sản thông qua việc thực hiện hành vi nhiều lần. Ở đây, A đã cung cấp sai thông tin về giá tiền taxi để buộc khách hàng của mình phải trả thêm một số tiền. Và bà C vì không biết nên đã tự nguyện đưa thêm tiền cho A.
Về hậu quả: A đã chiếm đoạt được 1,5 triệu đồng.
Tội chiếm đoạt tài sản là tội phạm cấu thành vật chất, chính vì vậy dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc. Theo quy định của điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 thì số tiền chiếm đoạt phải “trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.”
Như vậy, với số tiền 1,5 triệu đồng, nếu A thuộc một trong các trường hợp quy định ở khoản a, b, c của điều 174 thì hành vi của A có thể cấu thành tội này.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả: ở đây rõ ràng hành vi đòi thêm tiền của A là nguyên nhân dẫn đến A chiếm đoạt được 1,5 triệu đồng từ bà C nước ngoài. Như vậy ở đây có tồn tại mối quan hệ nhân quả.
Về mặt chủ thể: A là công dân Việt Nam, có năng lực chịu trách nhiệm hình sự đầy đủ.
Về mặt chủ quan:
Yếu tố lỗi: Lỗi của A là lỗi cố ý trực tiếp. Thông qua hành động đòi tiền nhiều lần của A có thể thấy được A thấy trước được hậu quả (mình sẽ lấy được tiền của khách) và mong muốn hậu quả ấy xảy ra.
Về mục đích: mục đích của A là lấy được thật nhiều tiền từ bà C. Như vậy, ngay từ đầu A đã có mục đích chiếm đoạt tài sản. Điều này để phân biệt với tội lạm dụng tín nhiệm nhằm chiếm đoạt tài sản với mục đích hình thành sau khi nạn nhân đã giao quyền sở hữu cho người phạm tội.
Như vậy, nếu A “Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” thì hành vi chiếm đoạt tài sản của A hoàn toàn có thể thỏa mãn đủ cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 điều 174 Bộ luật Hình sự 2015.