Công ty Cổ phần là loại hình công ty có thể huy động vốn từ nhiều tổ chức và cá nhân bằng cách phát hành và chào bán cổ phần. Ở Việt Nam, loại hình công ty này đã trở thành phổ biến cùng với quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp.
Hiện nay, công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có khả năng mở rộng quy mô vốn thông qua thị trường chứng khoán.
Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định các quyền của cổ đông trong công ty cổ phần. Nhưng trước hết, cần hiểu cổ đông là người sở hữu cổ phần đã được phát hành bởi công ty cổ phần, cổ đông chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn góp của công ty. Với vị trí này, cổ đông có những quyền của người góp vốn bao gồm: Quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông, quyền biểu quyết, quyền đề cử thành viên HĐQT, Ban kiểm soát, quyền tiếp cận thông tin, quyền được hưởng cổ tức, quyền ưu tiên mua cổ phần mới, quyền chuyển nhượng cổ phần, quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần, quyền nhận tài sản còn lại khi công ty phá sản.
Quyền của cổ đông được phân loại phụ thuộc vào cổ phần nắm giữ: gồm : cổ đông phổ thông và cổ đông ưu đãi. Cổ đông phổ thông là người sở hữu cổ phần phổ thông trong CTCP và chiếm đa số trong CTCP. Cổ đông ưu đãi là người sở hữu cổ phần ưu đãi trong CTCP. Cổ đông ưu đãi có quyền và lợi ích đặc biệt mà cổ đông phổ thông không có, như quyền: quyền ưu đãi biểu quyết, quyền ưu đãi cổ tức, quyền ưu đãi hoàn lại.
Ở Việt Nam, cơ cấu cổ đông của CTCP khác với nhiều nước trên thế giới ở chỗ có sự tham gia của cổ đông nhà nước trong CTCP. Cổ đông nhà nước có thể sở hữu đã số cổ phần để giữ vai trò chi phối trong CTCP. Luật Doanh nghiệp năm 2005, quy định hình thức pháp lý để thực hiện quyền quyền sở hữu của cổ đông nhà nước. Cụ thể: Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Phần vốn góp của sở hữu nhà nước là phần vốn góp được đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và nguồn vốn khác của Nhà nước do một cơ quan nhà nước hoặc tổ chức kinh tế làm đại diện chủ sở hữu. Không phải tất cả Công ty cổ phần, nhà nước đều sở hữu cổ phần, đối với công ty cổ phần được hình thành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực nhà nước cần giữu vai trò chi phối như bảo hiểm, ngân hàng, xây dựng,.. thì tỉ lệ sở hữu được duy trì trên 50%. Còn trong nhiều CTCP hoạt động trong lĩnh vực mà Nhà nước không cần nắm cổ phần chi phối thì cổ phần do Nhà nước có thể được bán tùy thuộc vào cơ quan quản lý vố nhà nước trực tiếp.
Hiện nay, ở Việt Nam còn một bất cập trong việc thực hiện quyền của cổ đông: đó là, tại phiên họp ĐHĐCĐ của CTCP thường bị chi phối bởi nhóm cổ đông chi phối, cổ đông thiểu số thường không có tiếng nói trong ĐHĐCĐ. Bên cạnh đó, trong các CTCP hình thành từ cổ phần hóa DNNN thì công đoàn trở thành một chủ sở hữu cổ phần bằng nguồn vốn đầu tư từ nguồn quỹ hợp pháp ( của công đoàn) tại doanh nghiệp cổ phần hóa ( không huy động, vay vốn) để mua cổ phần nhưng không quá 3% vốn điều lệ. Số cổ phần này không được chuyển nhượng. Công đoàn là một chủ thể đặc biệt sở hữu cổ phần nhưng hiện nay Luật Doanh nghiệp không quy định riêng về thực hiện quyền sở hữu của chủ thể này, bởi vậy, chỉ có thể hiểu Công đoàn là một nhà đầu tư – cổ phiếu phổ thông. Với mức sở hữu 3% Công đoàn không có quyền đề cử người ứng cử vào HĐQT. Ở đây, Công đoàn phải thực hiện 2 chức năng: bảo vệ quyền lợi của người lao động và tham gia vào HĐQT để tham gia quản lý điều hành Công ty Cổ phần, để có thể làm tốt được những nhiệm vụ này đòi hỏi là kết hợp giữa các lợi ích của người lao động, lợi ích của Công ty và lợi ích của cô đông. Ở một số nước trên thế giới, như Nhật Bản, nhiều công ty Cổ phần cho người lao động nắm giữ cổ phần nhằm tạo ra cơ cấu cổ đông ổn định. Hội nắm cổ phần của người lao động mua cổ phần và phân phối cho người lao động , cổ phần này không được phân phối cho người ngoài và khi người lao động thôi việc thì bán lại cho Hội nắm cổ phần. Đây là một cách làm vừa đảm bảo được lợi ích của người lao động vừa duy trì được sự ổn định các cổ đông trong công ty.
{loadposition hotro}