Pháp luật của các quốc gia trên thế giới nói chung và pháp luật Việt Nam hiện hành đã có những quy định về việc bảo hộ quyền tác giả, tạo ra hành lang pháp lý cho việc bảo hộ các quyền với tác phẩm được sáng tạo ra. Như vậy, theo quy định của pháp luật, có phải chỉ có tác giả mới có quyền tác giả? Ngoài tác giả, có chủ thể nào có thể có quyền tác giả?
1, Quyền tác giả là gì
Quyền tác giả có thể được hiểu là các quyền nhân thân và quyền tài sản mà pháp luật thừa nhận và bảo hộ đối với chủ thể quyền. Quyền nhân thân có thể là quyền đặt tên, quyền đứng tên, quyền công bố tác phẩm,… Quyền tài sản bao gồm các quyền như quyền biểu diễn tác phẩm, quyền sao chép tác phẩm, quyền làm tác phẩm phái sinh, quyền phân phối và các quyền khác theo quy định tại Điều 20 Luật SHTT hiện hành.
2. Ai là người có quyền tác giả
a) Tác giả
Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm. Trong trường hợp tác giả là chủ sở hữu quyền tác giả, họ có cả quyền tài sản và quyền nhân thân đối với tác phẩm mà mình sáng tạo ra.
Ví dụ: Anh Đỗ Ngọc A viết ra cuốn sách “Ba bí quyết làm giàu với smartphone” và đăng ký bảo hộ bản quyền. Trong trường hợp này, anh a vừa là tác giả đồng thời là người sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm “Ba bí quyết làm giàu với smartphone”.
b) Đồng tác giả
Có những tác phẩm được hình thành qua quá trình đầu tư thời gian, công sức và cả tài chính của nhiều người. Những người này là đồng tác giả của tác phẩm và cũng có thể trở thành chủ thể quyền tác giả.
Ví dụ: Ông Trần Minh Ngọc D và bà Nguyễn Thị Bích E cùng nhau dành thời gian, công sức và trí tuệ để tạo ra phần mềm quản trị. Sau khi hoàn thành tác phẩm của mình, ông D và bà E đăng ký bảo hộ quyền tác giả. Như vậy, ông D và bà E là đồng tác giả đồng thời cũng sở hữu quyền tác giả trong trường hợp này.
c) Đối tượng giao nhiệm vụ hoặc ký hợp đồng với tác giả
Các tổ chức, cá nhân khi cần tạo ra một tác phẩm có thể thông qua việc ký kết một hợp đồng hoặc giao nhiệm vụ cho nhân viên có chuyên môn để thực hiện. Khi đó, chủ sở hữu quyền tác giả không phải là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm mà là những đối tượng đã giao nhiệm vụ hoặc ký kết hợp đồng với tác giả. Những đối tượng này có các quyền tài sản và một phần của
quyền nhân thân đó là quyền công bố tác phẩm.
Ví dụ: Công ty Luật AXZ thuê anh Nguyễn Văn Minh A lập trình trang web cho công ty mình. Trong trường hợp này, đối tượng sở hữu quyền tác giả không phải là anh Minh A mà là Công ty AXZ.
d) Người thừa kế
Khi chủ sở hữu quyền tác giả mất, quyền tác giả, cụ thể là quyền tài sản sẽ được những người thừa kế thừa hưởng.
Ví dụ: Nhà văn Nguyễn Ngọc C là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm truyện “Sáu bước đến mùa đông”. Năm 2020, nhà văn C qua đời. Anh Nguyễn Ngọc L là con trai nhà văn C, đồng thời là người thừa kế của nhà văn C. Khi này, anh L cũng là người thừa kế các quyền tác giả đối với tác phẩm truyện “Sáu bước đến mùa đông” mà nhà văn C để lại.
e) Người được chuyển giao quyền
Một chủ sở hữu có thể chuyển giao lại quyền tài sản cho các cá nhân, tổ chức khác. Việc chuyển giao này có thể là chuyển giao một phần quyền hoặc toàn bộ quyền tài sản.
Ví dụ: Nhà xuất bản Kim Đáng mua lại quyền xuất bản phẩm truyện “Sáu bước đến mùa đông” của nhà văn Nguyễn Văn C.
Ngoài những đối tượng trên, thì chủ sở hữu quyền tác giả có thể là Nhà nước (trong trường hợp như tác phẩm khuyết danh hoặc các trường hợp khác theo quy định của pháp luật Sở hữu trí tuệ); chủ sở hữu quyền tác giả cũng có thể là công chúng.
Như vậy, tác giả không phải là đối tượng duy nhất có thể là chủ thể của quyền tác giả. Ngoài tác giả, đồng tác giả, người thừa kế, người nhận chuyển giao và cá nhân/ tổ chức ký hợp đồng hoặc giao nhiệm vụ cho tác giả cũng có thể sở hữu quyền tác giả.